Theo quy định pháp luật tại điểm d, khoản 1, Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính đã quy định nguyên tắc về xử lý vi phạm hành chính “một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần”. Quy định này được hiểu là trong thời gian tiến hành xử phạt đối với một vi phạm cụ thể thì người có thẩm quyền xử phạt không được xử phạt lần thứ hai đối với chính hành vi vi phạm đó. Nguyên tắc này đã được cụ thể tại Khoản 3, Điều 6, Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ. Theo đó, Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị lập biên bản và ra quyết định xử phạt một lần. Trường hợp hành vi vi phạm đã bị lập biên bản nhưng chưa ra quyết định xử phạt mà cá nhân, tổ chức không thực hiện yêu cầu, mệnh lệnh của người có thẩm quyền xử phạt, vẫn cố ý thực hiện hành vi vi phạm đó, thì người có thẩm quyền xử phạt phải áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính phù hợp để chấm dứt hành vi vi phạm. Khi ra quyết định xử phạt đối với hành vi đó, người có thẩm quyền xử phạt có thể áp dụng thêm tình tiết tăng nặng quy định tại Điểm i, Khoản 1, Điều 10 Luật Xử lý vi phạm hành chính hoặc xử phạt đối với hành vi không thực hiện yêu cầu, mệnh lệnh của người có thẩm quyền xử phạt và xử phạt đối với hành vi vi phạm đã lập biên bản nhưng chưa ra quyết định xử phạt. Trường hợp hành vi vi phạm đã bị ra quyết định xử phạt nhưng cá nhân, tổ chức vi phạm chưa thi hành hoặc đang thi hành quyết định mà sau đó vẫn tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm đó, thì hành vi vi phạm này được coi là hành vi vi phạm mới.
Quy định xử phạt một lần đối với một hành vi vi phạm hành chính có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm ngăn ngừa sự lạm dụng trong việc xử phạt, tránh tình trạng xử phạt nhiều lần đối với một vi phạm, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Đồng thời quy định nhằm bảo đảm việc xử phạt đúng người, đúng hành vi vi phạm.
Một buổi kiểm tra, hướng dẫn công tác XLVPHC tại UBND TP.Nha Trang
Thực tiễn thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính cho thấy, vì nhiều lý do khác nhau như: Trình độ của của người có thẩm quyền còn hạn chế, quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính chưa rõ ràng, tình trạng vi phạm hành chính diễn ra phức tạp, lực lượng cán bộ xử lý vi phạm hành chính còn mỏng… dẫn đến trường hợp biên bản vi phạm hành chính được lập có sai sót hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính được ban hành có sai sót. Vậy phải giải quyết như thế nào để đảm bảo nguyên tắc một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị lập biên bản và ra quyết định xử phạt một lần:
- Đối với trường hợp biên bản lập có những sai sót: các sai sót phổ biến trong việc lập biên bản vi phạm hành chính thường xảy ra như: lập biên bản sai mẫu biển bản; sai thời hạn giải trình; sai nội dung giải trình; xác định hành vi vi phạm hành chính không đúng; người lập biên bản không có thẩm quyền lập biên bản; Biên bản VPHC bị tẩy xóa, sửa chữa, bỏ trống nhiều nội dung (số biên bản; thời gian, địa điểm lập biên bản; căn cứ hồ sơ, tài liệu để lập biên bản VPHC; thời gian bắt đầu lập và kết thúc việc lập biên bản vi phạm hành chính không logic, không hợp lý, mâu thuẫn nhau)… Đối với những trường hợp này người có thẩm quyền căn cứ Điều 59, Luật Xử lý vi phạm hành chính lập biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính. Mẫu biên bản xác minh tình tiết vụ việc áp dụng mẫu Biên bản số 15 ban hành kèm theo Nghị định 97/2017/NĐ-CP. Biên bản xác minh phải được lập theo đúng thủ tục, trình tự quy định tại Điều 58, Luật Xử lý vi phạm hành chính và có đầy đủ chữ ký của những người có liên quan: Cá nhân hoặc đại diện tổ chức vi phạm; Người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại (nếu có) và là tài liệu gắn liền với biên bản vi phạm hành chính trình người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt, đồng thời, lưu trong hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính.
- Đối với Quyết định vi phạm hành chính có sai sót: Tùy theo tính chất của những sai sót thì người có thẩm quyền phải tiến hành sửa đổi, bổ sung, đính chính hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử lý vi phạm hành chính. Cụ thể :
+ Đối với Quyết định về xử lý vi phạm hành chính có sai sót về kỹ thuật soạn thảo làm ảnh hưởng đến nội dung của quyết định; Có sai sót về nội dung nhưng không làm thay đổi cơ bản nội dung của quyết định thì người có thẩm quyền sẽ ban hành quyết định sửa đổi, bổ sung quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Mẫu quyết định được áp dụng theo mẫu Quyết định số 32 ban hành kèm theo Nghị định 97/2017/NĐ-CP.
+ Đối với Quyết định về xử lý vi phạm hành chính được đính chính khi có sai sót về kỹ thuật soạn thảo mà không làm ảnh hưởng đến nội dung của quyết định người có thẩm quyền sẽ ban hành quyết định đính chính quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Mẫu quyết định được áp dụng theo mẫu Quyết định số 34 ban hành kèm theo Nghị định 97/2017/NĐ-CP.
+ Đối với trường hợp Có vi phạm quy định pháp luật về thẩm quyền, thủ tục xử lý vi phạm hành chính; Ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 65 Luật xử lý vi phạm hành chính; Giả mạo, làm sai lệch hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính, hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính quy định tại khoản 10 Điều 12 Luật xử lý vi phạm hành chính; Có quyết định khởi tố vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đối với vụ việc vi phạm có dấu hiệu tội phạm theo quy định tại khoản 3 Điều 62 Luật xử lý vi phạm hành chính; Có sai sót về nội dung làm thay đổi cơ bản nội dung của quyết định; Quyết định giải quyết khiếu nại của người hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại được ban hành dẫn đến việc thay đổi căn cứ, nội dung của quyết định về xử lý vi phạm hành chính thì Quyết định xử lý vi phạm hành chính bị hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung quyết định. Mẫu quyết định được áp dụng theo mẫu Quyết định số 36 ban hành kèm theo Nghị định 97/2017/NĐ-CP. Trong trường hợp có căn cứ để ban hành quyết định mới về xử lý vi phạm hành chính thì người đã ban hành quyết định phải ban hành quyết định mới hoặc chuyển người có thẩm quyền ban hành quyết định mới.
Thời gian thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ ban hành quyết định mới về xử lý vi phạm hành chính là 01 năm, kể từ ngày ra quyết định, trừ trường hợp hết hiệu lực quy định tại điểm a, khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Mặc dù đã có hướng giải quyết cho trường hợp biên bản vi phạm hành chính và quyết định xử phạt vi phạm hành chính có sai sót. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng công tác xử lý vi phạm hành chính, bảo đảm trật tự xã hội tránh việc xử lý các sai sót dẫn đến tình trạng quá thời hạn ban hành quyết định xử lý vi phạm hành chính, người có thẩm quyền cần làm đúng ngay từ đầu: từ khâu xác định hành vi vi phạm hành chính, lập biên bản, ra quyết định xử phạt, thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính…
Minh Tân